Chất dẻo sinh học tự phân hủy
Chất dẻo tổng hợp và những hậu quả
đối với môi trường
Tái
chế chất dẻo là một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với môi trường
Kỷ nguyên polyme mà nhiều
người cho rằng đã bắt đầu vào năm 1907 với sự ra đời của chất dẻo bakelit do
nhà hóa học Leo Bakeland phát minh – đã giúp cải thiện rất nhiều cuộc sống của
con người, nhưng cũng mang lại những hậu quả không mong muốn. Hiện nay, ngành
sản xuất chất dẻo tổng hợp trên toàn thế giới đang sử dụng hơn 60 triệu lao
động và sản xuất mỗi năm hơn 200 triệu tấn vật liệu chất dẻo. Sản xuất polyme
thương mại tiêu thụ khoảng 5% trữ lượng toàn cầu về nhiên liệu hóa thạch hữu
hạn, như khí thiên nhiên và dầu mỏ. Mặt khác, phần lớn các sản phẩm chất dẻo
đều có độ bền cao và có thể tồn tại hàng nghìn năm trong điều kiện bình thường,
do đó đang góp phần đáng kể gây ra những núi rác thải ngày càng lớn trên toàn
thế giới.
Những
hình ảnh túi ni-lông, các sản phẩm phế thải từ nhựa, polymer tràn ngập các bãi
biển đang ngày càng phổ biến
Túi chất dẻo phế thải là một trong
những ví dụ điển hình về vấn đề rác thải của nhân loại Mỗi năm, con người
tiêu thụ hơn 1 nghìn tỷ túi PE để đựng các loại hàng hóa khác nhau. Ở một số
nước, ví dụ Pháp, tỷ lệ tái chế đối với chất dẻo PET tương đối cao ( > 80%),
nhưng ở những nước khác như Mỹ thì tỷ lệ này khá thấp ( < 30%). Trong khi
một số sản phẩm chất dẻo đã qua sử dụng được xử lý bằng cách đốt để thu hồi
năng lượng, phần lớn các sản phẩm khác hoặc là được chôn lấp hoặc tệ hơn nữa là
vứt bỏ ra môi trường. Những chất dẻo có thể nôi trên mặt nước như PE và PP, đã
dễ dàng tìm đường ra các đại dương – đích đến của khoảng 5 triệu tấn chất dẻo
mỗi năm. Như vậy, cứ mỗi phút lại có 10 tấn chất dẻo phế thải đổ vào các đại
dương trên thế giới.
Những hạn chế của chất dẻo PLA
Ngày nay, khoảng 5% nguyên liệu được
sử dụng trong ngành sản xuất hóa chất Mỹ là các loại nguyên liệu có thể tái
sinh. Một số chương trình và kế hoạch của chính phủ Mỹ đã đề ra mục tiêu tăng
tỷ lệ này lên 25% vào năm 2030, trong khi đó một số tập đoàn hóa chất lớn như
Dow Chemical và BASF đã công bố những kế hoạch đầy tham vọng với những mục tiêu
lớn hơn.
Ước tính, lượng sinh khối được tạo
ra hàng năm trên Trái Đất ( chủ yếu nhờ quá trình quang hợp ) là khoảng 170 tỷ
tấn, gấp khoảng 1000 lần lượng chất dẻo tổng hợp được sản xuất ra. Tuy nhiên
sinh khối này vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu của chúng ta về nguyên liệu cho
sản xuất các sản phẩm polyme.
Có lẽ chất dẻo tổng hợp than môi
trường ngày này là polyeste axit polylactic ( PLA) . Nhà máy PLA lớn nhất thế
giới hiện nằm ở Blair, bang Nebraska, Mỹ. Tại đó, tinh bột ngô được chuyển hóa
thành glucoza, sau đó glucoza được lên men một phần để chuyển hóa thành axit
lactic. Công suất của nhà máy là 250.000 tấn/ năm, thấp hơn khoảng 1.000 lần
sản lượng của toàn bộ ngành sản xuất polyme. Tuy nhiên, ngày nay PLA đã có mặt
trong nhiều loại sản phẩm bao bì có thể phân hủy, ví dụ cốc chén và khay đựng
hoa quả trong các nhà hàng, và cả trong các sản phẩm hàng hóa lâu bền, như sợi
Ingeo dùng trong ngành dệt may.
Trước đây, nhiều nhà quan sát công
nghiệp cho rằng PLA sẽ không bao giờ trở nên khả thi do chi phí sản xuất quá
cao : Ban đầu giá PLA cao gấp 15 – 20% lần giá của các loại polyolefin. Tuy
nhiên, nhờ sản xuất quy mô lớn nên ngày nay mức giá này chỉ còn cao hơn 15 –
20% so với giá của PET đi từ nhiên liệu hóa thạch mà hiện đang được sử dụng
rộng rãi để sản xuất chai nước, màng mỏng và vải sợi.
PLA
từng là niềm hi vọng lớn của chất dẻo sinh học, nhưng theo thời gian, nó cũng
đã bộc lộ nhiều nhược điểm
Tuy PLA đã nhận được nhiều khen ngợi
của các nhà bảo vệ môi trường, nhưng nó cũng có một số nhược điểm quan trọng.
Chẳng hạn, PLA không bị phân hủy hoặc phân hủy sinh học trong các bãi chôn lấp
thông thường, tương tự như các loại polyme truyền thống. Trong khi đó, việc vận
chuyển các sản phẩm làm từ PLA đến các địa điểm làm phân trộn công nghiệp để
tiến hành phân hủy sinh học thường là không khả thi. Hơn nữa, phạm vi nhiệt độ
hữu ích của PLA bị hạn chế do nhiệt độ chuyển hóa thủy tinh thấp ( 55oC),
trên nhiệt độ polyme sẽ mất đi tính chất cứng và bị biến dạng. Vị vậy, bao bị
PLA không thích hợp để đựng đồ uống hoặc thức ăn nóng, trên cốc nhựa PLA thường
có ký hiệu cảnh báo “Chỉ sử dụng cho đồ uống nguội”.
Xu hướng nghiên cứu các chất dẻo
sinh học mới
Một số nhóm nghiên cứu ở Mỹ đang tìm cách lấy cảm hứng từ thiên nhiên để phát
triển các sản phẩm polyme sinh học kiểu mới. Một nửa lượng cacbon hữu cơ trong
môi trường của con người hiện nằm ở dạng polyme phong phú nhất trên thế giới,
đó là xenluloza. Các monomer glucoza tạo ra xenluloza thường được liên kết bởi
nhóm chức axetal có thể thủy phân (-OCO-), đây là nhóm chức rất hiếm gặp trong lĩnh
vực sản xuất polyme tổng hợp. Khi đưa nhóm axetal có thể thủy phân dễ dàng này
vào bộ khung của PLA, một số nhà nghiên cứu đã tạo ra được dạng PLA có thể thủy
phân. Căn cứ theo tốc độ mất trọng lượng của polyme trong nước cất hoặc nước
biển, các nhà khoa học đã ước tính thời gian phân hủy của polyme PLA mới là 5 –
10 năm.
Các nhà nghiên cứu Mỹ cũng đã phát triển loại polyaxetal khác, có cấu trúc
tương tự polyetylen nhưng được chiết xuất từ các loại dầu sinh học. Mục đích
của các nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực này sẽ là thay đổi các tính chất
nhiệt và cơ của polyetylen cho phù hợp, nhưng vẫn duy trì khả năng phân hủy
trong nước của polyaxetal – nhờ đó có thể giảm đáng kể khối lượng các chất dẻo
tồn tại dai dẳng trong các đại dương.
Một loại polyme khác cũng đang được các nhà nghiên cứu quan tâm là PET. Polyme
này chiếm khoảng 18% thị trường chất dẻo toàn cầu. Tại Mỹ, người dân thải bỏ
mỗi giờ hơn 6 triệu chai PET. Do PET là một polyeste thơm, phương pháp thích
hợp để biến đổi các tính chất nhiệt của PET là thu hồi các chất thơm từ thiên
nhiên và sử dụng chúng làm nguyên liệu monome. Lignin, chiếm khoảng 30% thành
phần của cây, là polyme hữu cơ phong phú thứ hai trên Trái Đất và là nguôn cung
cấp tốt nhất các chất thơm có thể tái tạo. Lignin là sản phẩm phụ quan trọng
của ngành sản xuất giấy, nhưng hiện nay hầu như toàn bộ sản phẩm này đều bị đốt
tại chỗ để thu hồi năng lượng.
Nhưng ngày nay chúng ta đã có công nghệ với khả năng chiết xuất hai loại phân
tử riêng rẽ là vanilin và axit pherulic từ nguyên liệu lignin hoặc
lignoxenluloza có trong cám lúa mì hoặc cám gạo. Các phân tử chất thơm này có
tiềm năng trở thành các nguyên liệu ban đầu rất sẵn có và quan trọng thiết yếu
cho nhiều ngành sản xuất. Ví dụ, axit polyester polydihy – dropherulic ( PHFA)
có nhiệt độ chuyển hóa thủy tinh (Tg = 73oC) cao hơn so với PET (Tg
= 67oC). Điều quan trọng là sản phẩm thủy phân của PHFA là axit
dihydropherulic, một loại chất chống oxy hóa có mặt trong trà, cà phê, hạt ngũ
cốc chưa xay và các thực phẩm giàu các chất chống oxy hóa khác. Hợp chất họ
hàng của nó là axit pherullic hiện đã được bán trên thị trường ở dạng các viên
250mg dùng như thực phẩm bổ sung. Trong những nỗ lực nghiên cứu mới đây, các
nhà khoa học Mỹ đã phát triển các phương pháp đồng trùng hợp PHFA với nhiệt độ
chuyển hóa thủy tinh trên 150oC. Phạm vi nhiệt độ chuyển hóa thủy
tinh rộng của những vật liệu đó khiến cho chúng trở thành những ứng viên xuất
sắc để thay thế polyester (Tg = 95oC) trong sản xuất cốc, đĩa, đồ
dùng nấu ăn, bao bì dùng một lần… và cho các quá trình đóng chai, đóng hộp
nóng.
Kết hợp với các nhà thiết kế thời trang, các nhà nghiên cứu cũng đang tìm cách
đưa các polyester thơm kiểu mới này vào các loại sợi để sản xuất các loại quần
áo thân môi trường.
Nghiên cứu sử dụng nguyên liệu
metanol
Ngày nay etylen là phân tử hữu cơ
được sản xuất ở quy mô lớn nhất trên toàn cầu, phần lớn được sử dụng cho sản
xuất poly – etylen với sản lượng đến 80 triệu tấn/ năm – khoảng 40% thị phần
của toàn bộ các polyme tổng hợp. Với những nỗ lực ngày càng tăng trong việc
thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng sinh khối thân môi trường, nhiều người cho
rằng đường (glucoza, monome của xenluloza) là “dầu mỏ mới”. Nếu đúng như vậy,
thì sẽ hợp lý nếu đặt ra câu hỏi. Vậy “etylen mới” là gì ? Một số nhà nghiên
cứu cho rằng, formaldehyt chính là “etylen mới”.
Formaldehyt và etylen có trọng lượng gần như trùng hợp và cả hai đều có cacbon
tham gia trong liên kết đôi với hoạt tính cao, nhưng formaldehyt cũng chia sẽ
tình trạng oxy hóa và công thức thực nghiệm của sinh khối, tương tự như
xenluloza và đường. Một trong những ứng dụng tiềm năng của formaldehyt có thể
dựa trên khả năng đông trùng hợp luân phiên với CO một cách hoàn hảo. Quá trình
này đã được tối ưu hóa để thu được axit polyglycolic (PGA) mà về mặt chức năng
tương đương với PGA thương mại, nhưng có thể được sản xuất với số bước ít hơn,
nhờ đó giảm nhiều các sản phẩm phụ không cần thiết.
Trước đây, chi phí cao và quy mô sản xuất nhỏ của PGA – so với PLA – đã ngăn
ngừa khả năng sử dụng hợp chất này trong các ứng dụng thương mại. Nhưng điều
quan trọng là các monome C1 không đắt tiền (formaldehyt và CO) có thể được sản
xuất từ methanol mà từ cách đây hàng trăm năm đã được sản xuất theo phương pháp
chưng cất gỗ.
Nếu kinh tế đi từ nguyên liệu methanol đã được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là
thân môi trường, dựa trên nguyên liệu sinh học, có khả năng thay thế nền kinh
tế đi từ nguyên liệu dầu mỏ và các nhiên liệu hóa thạch khác. Nếu nền kinh tế
đi từ methanol đạt được những thành công trong tương lai, các loại polyme dẫn
xuất từ nguyên liệu C1 này sẽ trở thành những loại polyme nổi bật về hiệu quả
kinh tế.
Xu hướng phát triển của thị trường
Một trong những trở ngại cho sự phát triển của polymer xanh là động lực quá lớn
hiện nay của ngành sản xuất polyme đi từ nhiên liệu hóa thạch. Nhiều công ty
hàng đầu trên thế giới rất quan tâm đến việc tìm ra các quy trình sinh học để
sản xuất các chất dẻo hàng hóa, có khả năng được kết hợp vào cơ sở hạ tầng về
chế biến hiện nay của ngành, nhưng họ ít quan tâm đến việc phát triển các chất
dẻo kiểu mới cho các sản phẩm bao bì và hàng hóa. Tư tưởng này giải thích phần
nào thành công thành công của polyetylen đi từ nhiên liệu sinh học và sản phẩm
PET Plantbottle của Công ty Coca Cola. Bằng cách sử dụng etanol sinh học
đi từ đường lên men, các công ty Dow Chemical và Brasken đã sản xuất poly –
etylen sinh học với sản lượng đứng đầu trong số các polyme tổng hợp đi từ
nguyên liệu sinh học có thể tái tạo. Tương tự, Công ty Coca – Cola đã nghiên
cứu etanol sinh học để tổng hợp comonome etylen glycol cho PET Plantbottle, nhờ
đó đạt hàm lượng nguyên liệu sinh học đến 30%. Những phương pháp như vậy tuy
trên danh nghĩa đã tìm cách giải quyết một số thách thức trong sản xuất polyme
xanh, nhưng không đề cập đến việc loại bỏ các loại polyme truyền thống. Trên
thực tế, polyetylen sinh học và PET Plantbottle đều có khả năng phân hủy
không cao, tương tự như các sản phẩm đi từ nguyên liệu dầu mỏ.
Thị trường chất dẻo toàn cầu hiện nay là ngành sản xuất công nghiệp với doanh
số 1200 tỷ USD/ năm. Các sản phẩm chất dẻo cho những ứng dụng bao bì ngắn hạn
chiếm khoảng một phần ba doanh số này.
Tương tự như việc quay đầu một chiếc tàu chở dầu nặng nề, động lực của ngành
sản xuất chất dẻo đang thay đổi từ từ và chậm rãi. Một bước nhảy định lượng sẽ
chỉ xảy ra khi các công ty cần đáp ứng như cầu tăng mạnh của người tiêu dùng,
liên kết với sự sẵn sàng chấp nhận chi phí cao hơn, ít nhất là trong giai đoạn
quảng bá ban đầu và giai đoạn tăng trưởng của các sản phẩm polyme xanh tiếp
theo.
Tiềm năng của chất dẻo sinh học trong việc thay thế các chất dẻo truyền thống,
kể cả sợi tổng hợp, là 90%. Điều đó có nghĩa là, chỉ khoảng 10% các sản phẩm
polyme mà chúng ta sử dụng hàng ngày sẽ cần phải được sản xuất từ nhiên liệu
hóa thạch vì chúng có những đặc điểm tính năng đặc biệt mà polyme đi từ nguyên
liệu sinh học không thể có được. Do đó, trên lý thuyết ngành sản xuất bao bì
polyme sinh học có khả năng sẽ tăng trưởng doanh thu với tốc độ hàng trăm tỷ
USD mỗi năm.
Năm 2007, ngành sản xuất polyme “xanh” tại Mỹ mới chỉ đạt doanh thu 1 tỷ USD,
nhưng sẽ nhanh chóng đạt đến mục tiêu 10 tỷ USD vào năm 2020. Trong quá trình
đó, các loại polyme thân môi trường sẽ tiếp tục thay thế cho các nguyên liệu
truyền thống.
Sự tăng trưởng của sản xuất polyme đi từ nhiên liệu sinh học sẽ được đẩy nhanh
bởi sự suy giảm các nguồn tài nguyên nhiên liệu hóa thạch, sự tăng giá của
nhiên liệu hóa thạch và sự thay đổi quan điểm khi người tiêu dùng chuyển hướng
sang sử dụng các sản phẩm thân môi trường. Dĩ nhiên, các đổi mới kỹ thuật và
công nghệ cũng sẽ là dộng lực quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường
polyme xanh trên thế giới.
Theo Tạp chí Công nghiệp và Hóa chất
Phản hồi của bạn đọc
Phan The Anh(ptanh183@yahoo.com.vn) nói:
Cho tôi hỏi tại sao các loại nhựa như PE, PP có nhiệt độ hóa thủy tinh thấp (Tg ~ -20-0 oC) vẫn có thể sử dụng để chứa đựng thức ăn hay nước nóng mà không bị biến dạng. Trong khi đó trong bài viết lại nói PLA có Tg thấp (thường 50-60 oC)nên mất đi tính chất cứng và dễ bị biến dạng ?
Bài viết khác